Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế số, Việt Nam đã đưa ra các chính sách thuế nhằm gia tăng nguồn thu ngân sách từ các giao dịch thương mại điện tử trong nước và xuyên biên giới. Trong bối cảnh đó, Quốc hội Việt Nam đã sửa đổi hai văn bản luật quan trọng, gồm: Luật Quản lý Thuế (“Luật QLT sửa đổi“) và Luật Thuế Thu nhập Cá nhân (“Luật TTNCN sửa đổi“). Những sửa đổi này đưa ra các quy định rõ ràng hơn về nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân và hộ kinh doanh cũng như trách nhiệm thu thuế của các đơn vị quản lý các sàn thương mại điện tử và nền tảng số trong nước.
Nghĩa vụ chính của người nộp thuế và đơn vi điều hành quản lý các sàn thương mại điện tử và nền tảng số
Luật QLT và Luật TTNCN sửa đổi yêu cầu người nộp thuế và đơn vị điều hành quản lý sàn thương mại điện tử và kỹ thuật số phải đăng ký và nộp thuế tại Việt Nam. Những quy định này sẽ được áp dụng theo từng giai đoạn:
- Từ ngày 1/1/2025: Các nhà cung cấp và nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài tham gia vào các giao dịch điện tử xuyên biên giới hoặc cung cấp hàng hóa và dịch vụ thông qua các nền tảng kỹ thuật số tại Việt Nam (“Các Nhà cung ứng Nước ngoài”) bất kể có hiện diện tại Việt Nam hay không, đều phải
- Đăng ký thông tin thuế với Tổng cục Thuế Việt Nam (“TCT“).
- Kê khai thuế tại Việt Nam theo quy định của Bộ Tài chính (“BTC“).
- Nộp thuế đối với thu nhập phát sinh tại Việt Nam.
- Từ ngày 1/4/2025: Các đơn vi điều hành quản lý các nền tảng thương mại điện tử nội địa và các nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian (bao gồm đối tác trong và ngoài nước) phải khấu trừ và nộp thuế thu nhập cá nhân thay cho hộ gia đình và cá nhân kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử và nền tảng số.
Thủ tục đăng ký thuế
Để đơn giản hóa quy trình đăng ký và nộp thuế, BTC đã thiết lập cổng thông tin trực tuyến để các Nhà cung ứng Nước ngoài trực tiếp đăng ký, nhận mã số thuế Việt Nam và tự kê khai nộp thuế. Họ cũng có thể ủy quyền cho đại lý thuế tại Việt Nam thay mặt họ đăng ký và nộp thuế.
Để đăng ký, các Nhà cung ứng Nước ngoài phải nộp các tài liệu sau (được dịch sang tiếng Anh hoặc tiếng Việt):
- giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc tài liệu tương đương).
- giấy chứng nhận mã số thuế (hoặc tài liệu tương đương) được cấp tại quốc gia sở tại của Nhà cung ứng Nước ngoài.
Thực trạng tuân thủ tính đến tháng 6/2024
Theo thông tin từ TCT tính đến tháng 6/2024, mới chỉ có 53 Nhà cung ứng Nước ngoài đã đăng ký mã số thuế tại Việt Nam và đang nộp thuế, bao gồm một số tên tuổi nổi bật như Microsoft, Netflix, TikTok, Samsung, Google, Facebook, và LinkedIn. Các Nhà cung ứng Nước ngoài không tuân thủ Luật QLT sửa đổi có thể sẽ bị các chế tài xử phạt, bao gồm tiền phạt do chậm nộp và chậm kê khai. Do đó, họ cần rà soát các hoạt động tại Việt Nam để đảm bảo tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định về thuế.
Nghĩa vụ khấu trừ thuế
Hiện nay, nhiều Nhà cung ứng Nước ngoài vẫn chưa đăng ký và nộp thuế tại Việt Nam. Để bù đắp việc thất thu ngân sách, BTC đã chuyển trách nhiệm thu thuế sang:
- Các ngân hàng thương mại và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian đối với giao dịch B2C mà người mua là cá nhân.
- Các tổ chức Việt Nam đối với giao dịch B2B mà người mua là doanh nghiệp.
Theo Nghị định 126[1], các ngân hàng thương mại và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán phải khấu trừ thuế trên hàng hóa, sản phẩm và dịch vụ do cá nhân Việt Nam mua từ Nhà cung ứng Nước ngoài chưa đăng ký mã số thuế tại Việt Nam. Nghĩa vụ này chỉ áp dụng nếu Nhà cung ứng Nước ngoài chưa có tên trong danh sách đăng ký với TCT.
Nghĩa vụ kê khai và báo cáo
Nhà cung ứng Nước ngoài phải nộp tờ khai thuế hàng quý (Mẫu 02 theo Thông tư 80[2]) qua cổng thông tin của TCT. Ngân hàng thương mại và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian có nghĩa vụ khấu trừ thuế phải nộp báo cáo hàng tháng (Mẫu 03 theo Thông tư 80).
Luật QLT sửa đổi chưa quy định cụ thể nghĩa vụ kê khai đối với nền tảng thương mại điện tử và kỹ thuật số trong nước, cũng như chưa xác định mẫu biểu cụ thể. Vấn đề này có lẽ sẽ được quy định rõ hơn trong các văn bản hướng dẫn của BTC.
Ưu đãi thuế theo Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
Việt Nam đã ký các kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần với khoảng 80 quốc gia, theo đó các Nhà cung ứng Nước ngoài có thể được hưởng các lợi ích về thuế. Tùy thuộc vào trường hợp và việc đáp ứng một số điều kiện, các Nhà cung ứng Nước ngoài có thể được hưởng miễn hoặc giảm thuế thu nhập theo hiệp định. Ví dụ, một Nhà cung ứng Nước ngoài có thể xin miễn thuế nếu không có cơ sở thường trú (“CSTT“) tại Việt Nam. Định nghĩa “CSTT” thay đổi tùy theo hiệp định, nhưng theo hiệp định giữa Việt Nam và Singapore, một doanh nghiệp Singapore bị coi là có CSTT tại Việt Nam nếu:
- Có đại diện tại Việt Nam có quyền thường xuyên ký hợp đồng thay mặt cho doanh nghiệp, hoặc
- Hợp đồng với đối tác Việt Nam kéo dài hơn 183 ngày trong bất kỳ khoảng thời gian 12 tháng nào.
Nhà Cung ứng Nước ngoài nếu đáp ứng đủ các điều kiện có thể xin miễn thuế bằng cách nộp các tài liệu sau:
- Giấy chứng nhận cư trú do cơ quan thuế nước sở tại cấp, xác nhận tình trạng cư trú thuế trong năm tài chính liên quan.
- Hợp đồng giữa Nhà cung ứng Nước ngoài và đối tác Việt Nam.
- Đơn đề nghị miễn thuế (Mẫu 01/HTQT theo Thông tư 80).
* * * *
Các đơn vi quản lý và vận hành nền tảng thương mại điện tử và kỹ thuật số tại Việt Nam chỉ còn ít thời gian để chuẩn bị cho việc thực hiện nghĩa vụ khấu trừ thuế theo Luật QLT sửa đổi. Một số khó khăn có thể phát sinh do phương thức thanh toán phổ biến trong giao dịch thương mại điện tử nội địa vẫn là “thanh toán khi nhận hàng”. Các ngân hàng thương mại và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trung gian cũng cần phải chú ý đến giao dịch xuyên biên giới giữa các cá nhân là người mua Việt Nam và các Nhà cung ứng Nước ngoài để đảm bảo việc tuân thủ các quy định về thuế.
[1] Nghị định 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 19/10/2020 (“Nghị định 126“).
[2] Thông tư 80/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 29/9/2021 (“Thông tư 80“).